“Làm được đã khó, giữ được còn khó hơn, hưởng được lại còn khó nữa…”
Làm được đã khó, giữ được còn khó hơn, hưởng được lại còn khó nữa. Muốn hưởng được thì trước tiên là tâm ta phải được tự tại, không vướng buồn lo.
Thử nhìn xem có bao nhiêu người giàu có mà không phải buồn lo. Họ làm ra nhiều nhưng chẳng hưởng được bao nhiêu, ăn không ngon, ngủ không yên. Nhiều người cứ mãi mê, đến khi ngoảnh lại thì sức khoẻ đã không còn, người thân cũng không còn. Một thân đơn độc giữa dòng đời thì giàu có kia còn nghĩa lý gì?
Dòng đời xô đẩy, cuốn theo thân phận nhỏ bé của con người. Ta còn lại gì cuối đời ngoài những hoài niệm và tiếc nuối? Niềm vui đâu chỉ có vật chất mà còn có tinh thần và do cách ta cảm nhận ngay trong hiện tại. Hạnh phúc thật ra cũng đơn giản, đó là sự an vui, tự tại bên người thân trong giây phút này. Càng chạy đi tìm thì hạnh phúc sẽ càng xa, như người điên đi tìm bắt bóng, như người mò trăng đáy nước mà thôi!
“Chúng ta đang tự làm khó mình, tự cột mình với những chùa to, tượng lớn. Chúng ta rất khó thoát khỏi vòng lẩn quẩn của chính mình tạo ra, và như thế thì còn thời giờ đâu để tu hành giác ngộ…”
Ngày xưa, sau khi thành đạo, Đức Phật về thăm lại vua cha, Đức vua đã đề nghị xây chùa và cung dưỡng cho Ngài cùng các đệ tử tu hành suốt đời. Đức Phật đã từ chối lời đề nghị này và chọn con đường khất thực để hoằng pháp. Trong một xã hội phân chia giai cấp như Ấn Độ thì việc mang đạo pháp đến những tầng lớp thấp kém thật không hề dễ. Điều đó không chỉ vì sự định kiến của xã hội, mà còn do sự mặc cảm, tự ti nên của người nghèo luôn tìm cách né tránh những người thuộc giai cấp cao quý như Ngài. Do vậy, khất thực là phương tiện gieo duyên hữu hiệu để Ngài đem đạo pháp đến với tất cả mọi người một cách bình đẳng. Ngoài ra, khất thực cũng giúp chư tăng diệt tâm ngã mạn và cũng mang lại niềm vui cho gia chủ khi có cơ hội bố thí cho một bậc tôn kính như Ngài. Đặc điểm chính trong khất thực thời Đức Phật là chư tăng không được chọn lựa gia chủ để khất thực, không được nhìn thẳng vào gia chủ hay thức ăn, và chỉ lấy một lượng vừa đủ dùng. Khất thực cũng không nhận tiền hay vật phẩm có giá trị.
Ngày nay, khi Phật giáo phát triển ngày càng mạnh hơn, hầu hết các thầy ở nước ta đã chọn cách hoằng pháp khác, đó là xây chùa để làm nơi để các phật tử tựu về nghe pháp và tu tập. Theo cách này, các thầy cũng không còn đi khất thực. Vì phật tử tựu về đông, các thầy phải xây chùa lớn. Để thu hút thêm nhiều phật tử, các thầy đúc tượng to, sử dụng nguyên vật liệu quý hiếm để tạo thêm nét độc đáo riêng cho ngôi chùa của mình. Khuôn viên chùa cũng được mở rộng để tạo cảnh quan (nhiều ngôi chùa có diện tích lên đến hàng ngàn héc-ta đất). Để các buổi giảng pháp thêm sinh động, các thầy thích dùng các pháp phương tiện để tạo tiếng cười như ca hát, đọc thơ tình yêu, sưu tầm các câu châm ngôn hài hước. Rõ ràng là các phật tử rất thích nhưng xét về tu tập thì thiếu phần trang nghiêm, nhất là khi các thầy giảng Kinh Phật. Một số thầy còn đăng clip hàng ngày, PR và theo dõi lượng view để đo độ “hot” của mình. Với sự cúng dường hào phóng của phật tử, một số thầy quen dần với cuộc sống xa hoa, sử dụng hàng hiệu, đi đâu cũng tiền hô hậu ủng không khác gì các ngôi sao hạng A. Nhiều thầy đang xa dần đời sống phạm hạnh của một người đệ tử phật chân chính.
Chuyện tu hành là chuyện cá nhân, ai cũng có cách tu của mình nên không cần phải góp ý cho ai. Nhưng khi Đạo phật đang xa dần với chánh pháp thì chính các thầy là người thiệt hại trước tiên vì đã chạy theo hào quang giả tạo, lãng phí thời gian tu tập. Sẽ có nhiều thầy hối tiếc khi cuối đời nhìn lại tất cả cũng chỉ là giấc mộng phù du mà thôi, chúng không giúp được gì cho các thầy trong việc giác ngộ giải thoát. Nhóm người chịu thiệt hại kế đó là các phật tử vì họ đã bỏ công sức, thời gian và tiền của mà chẳng được gì ngoài việc đầu tư bố thí để được hưởng phúc đời sau. Cuối cùng thiệt hại cũng thuộc về đất nước khi phải dành ra nhiều quỹ đất để xây cất chùa thật lớn trong khi có thể để dành nguồn tài nguyên đó cho sản xuất, nuôi sống nhân sinh. Thật ra, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số ngày nay thì việc học pháp và tu tập chúng ta có thể thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi thông qua các nền tảng trực tuyến. Chúng ta chỉ cần một minh sư chứ không nhất thiết phải tìm đến chùa to, tượng lớn.
Một mặt trái khác của chùa to, tượng lớn là chúng cần nhiều kinh phí và nhân lực để vận hành và bảo trì hàng ngày. Gánh nặng này đang đặt nặng lên vai các thầy và phật tử, nhất là trong điều kiện nhân dân ta còn nghèo. Cũng vì gánh nặng này, một số thầy đã không ngại đứng ra hô hào, kêu gọi cúng dường vật chất, tiền bạc một cách hơi quá lố, gây nên hiệu ứng tiêu cực và dư luận trái chiều trong xã hội và một bộ phận phật tử.
Qua các phân tích trên ta thấy Đức Phật vô cùng trí tuệ trong việc buông bỏ các hình thức. Việc tu hành của Ngài là buông bỏ chứ không phải vơ vào. Đức Phật từng dạy “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến như lai” (Tạm dịch: “Tất cả các pháp có hình tướng đều là hư dối, chỉ khi thấy các tướng không tướng tức thấy Như Lai). Còn chúng ta tu hành ngày nay thì sao? Chúng ta đang tự làm khó mình, tự cột mình với những chùa to, tượng lớn. Chúng ta rất khó thoát khỏi vòng lẩn quẩn của chính mình tạo ra, và như thế thì còn thời giờ đâu để tu hành. Bởi vậy cho nên nhiều người càng tu thì con đường giác ngộ, giải thoát lại càng xa.
“Một người tàn tật, nghèo khổ đời này chưa hẳn là do họ gây ác từ kiếp trước, mà biết đâu đó là do hạnh nguyện của họ từ kiếp đã hướng về Phật Pháp nên chấp nhận hóa thân độ sinh…”
Gần đây chúng ta nghe nói nhiều hơn về nhân quả không chỉ trong các bài giảng của các thầy mà còn được bàn luận sôi nổi trong cộng đồng. Thực ra, mục tiêu cuối cùng của Đạo Phật là giác ngộ về chân lý để người tu đạt đến tâm giải thoát, tự tại, đó là trạng thái niết bàn, còn nhân quả chỉ là phương tiện răn đe để chúng ta giữ giới, trợ duyên cho việc tu hành.
Nhân quả không đơn giản là “một nhân sinh ra một quả”, mà thực ra nó phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân (nhân) và nhiều điều kiện (duyên). Kiểu diễn giải đơn dgiản như “kiếp này nghèo khổ, tàn tật là do kiếp trước làm điều ác như cướp của, giết người,” đều là quy chụp thiếu cơ sở. Một người nghèo khổ đời này chưa hẳn là do gây ác từ kiếp trước, mà biết đâu là do hạnh nguyện của họ từ kiếp hướng về Phật Pháp nên kiếp này sớm buông bỏ bon chen và chấp nhận cuộc sống thanh bần an lạc. Tương tự, một người tật nguyền kiếp này có thể do hạnh nguyện từ kiếp trước của họ được tái sinh vào một kiếp đời bất hạnh để độ sinh cho những người giống mình. Đó chính là những Bồ Tát hóa thân độ sinh. Lịch sử cho thấy rằng nhiều thiên tài, hiền tài, thậm chí có người đã đắc quả A-La-Hán cũng là người tàn tật, người nghèo. Ngược lại, cũng có nhiều vua chúa, người giàu có, xinh đẹp nhưng có kết cục lại vô cùng bi thảm.
Có quá nhiều điều ta không thấy, không hiểu, cho nên đừng vội quy chụp làm tổn thương thêm những người tàn tật, yếu thế. Những kiểu quy chụp như thế đều là tà kiến nhằm mục đích phân biệt hay hù dọa nhằm khiến người ta làm theo ý mình. Về mặt nhân văn, người tàn tật, nghèo khổ rất dễ tổn thương, họ vốn chịu nhiều thiệt thòi, họ không cần thương hại mà cần sự bình đẳng. Thiết nghĩ ta cần cẩn trọng trong việc phán xét để tránh khoét sâu thêm nỗi đau của họ.
“Sự chuẩn bị sẽ quyết định đến hơn 90% thành công hay thất bại của mọi công việc. Ai cũng biết điều này nhưng ít người chuẩn bị cho mình thái độ đúng để tạo được ấn tượng và thiện cảm khi cần xử lý một công việc khó…”
Nhiều người khó tìm được tiếng nói chung với người khác. Ở nhà họ không tìm được tiếng nói chung với vợ hoặc chồng; vào cơ quan thì không tìm được tiếng nói chung với đồng nghiệp; ra xã hội thì không tìm được tiếng nói chung với mọi người. Với những người này, nếu để họ xử một công việc khó nào đó thì thất bại là cái chắc. Nhưng nguyên nhân chính là vì sao?
Thực ra, khi ta bước vào thực hiện một công việc khó khăn nào đó thì sự chuẩn bị sẽ quyết định đến hơn 90% thành công hay thất bại. Nếu chuẩn bị tốt thì khả năng thành công càng cao còn nếu chỉ hành xử theo cảm tính thì khả năng thất bại là rất cao. Điều này ai cũng biết, nhưng đáng tiếc là đa số chúng ta cho rằng cần chuẩn bị phần nội dung, các lý lẽ để ‘chiến đấu’ với nhau, nhưng rất ít người chuẩn bị cho mình một thái độ đúng để tạo được ấn tượng và thiện cảm khi xử lý một công việc khó. Ai cũng biết một khi người ta đã thích thì việc gì cũng xong, còn một khi người ta ghét thì cái gì cũng khó, cho dù mình có lý lẽ gì đi chăng nữa.
Đối với người thực hành Đạo Phật, trước khi thuyết pháp các thầy thường không quên cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho những lời mình nói ra. Nhờ đó, lời các thầy nói ra thể hiện sự khiêm tốn, ánh mắt ôn hòa tôn trọng, yêu thương người nghe. Với cách giao tiếp khiêm tốn và nhẹ nhàng như vậy thì nói gì cũng dễ nghe, đề xuất gì cũng dễ thuận.
Người thất bại thì ngược lại luôn chăm chăm vào lợi ích của mình mà không để ý đến người. Họ nghĩ rằng mình biết nhiều hơn đối phương nên muốn tận dụng ưu thế để chiến thắng. Những người này những tưởng rằng mình thông minh, nhưng thật ra lại nông cạn, đi đến đâu cũng thất bại vì chẳng ai muốn giao tiếp với họ.
“Sống ở đời cái gì cũng vừa phải. Thông minh quá, giỏi giang quá nếu không biết cách sống thì cũng không hay, thậm chí còn gây họa cho bản thân….”
Người thông minh quá, giỏi giang quá nếu không biết cách sống thì cũng không hay, thậm chí còn gây họa cho bản thân. Dưới đây là những kỹ năng sống từ lời dạy của Đại Sư Tinh Vân.
Nhìn thấu lòng người không cần nói ra hết, chừa cho họ một con đường, giữ cho mình chút khẩu đức.
Trách người không cần hà khắc, chừa cho họ chút mặt mũi, giữ cho mình chút độ lượng.
Tài năng không phô trương hết, dành cơ hội cho người khác, giữ cho mình sự sâu sắc.
Có công không nhận hết, chuyển cho người vài phần, lưu cho mình sự khiêm nhường.
Hiểu hết lý lẽ không cần tranh cãi đến cùng, mở đường cho người khác, giữ cho mình sự khoan dung.
Được yêu quý chớ nên cậy hết vào, sẻ cho người chút ít, lưu cho mình đường lui.
Giàu sang chẳng nên hưởng hết, chia cho người chút ít, lấy chút phúc cho mình.
Những điều trên đây rất thiết thực để chúng ta ghi nhớ trong cách ứng xử hàng ngày. Tôi cũng xin đưa thêm vài điều rút ra từ kinh nghiệm sống của mình:
Thất bại không đổ lỗi hết cho hoàn cảnh, đổ lỗi cho người khác; nhận một phần trách nhiệm, giữ cho mình chút tôn trọng.
Thuận lợi, thăng tiến không tự mãn, không cần đại ngôn; lưu cho mình chút hậu phúc.
Không hơn thua với người yếu thế, giữ cho mình sự độ lượng, lưu thêm chút âm đức.
“Người tốt là người có chính kiến, dám bênh vực cho lẽ phải, góp phần ngăn chặn, giảm thiểu cái ác, cái xấu. Đó chính là cái dũng của thánh nhân….”
Người làm việc ác phần lớn do tham sân si xúi giục, nhưng cũng có khi do hoàn cảnh cùng đường thúc ép. Nhưng cũng có người khi gặp cái ác lại thích thú, cổ vũ reo hò. Tại sao vậy? Có phải là vì họ bị mua chuộc hay có lợi ích gì đó cho nên dù biết là sai nhưng vẫn cố tình bênh vực? Cũng có người tỏ ra vui vẻ, hả hê khi thấy người khác bị hại. Đó có phải là do họ ích kỷ, đố kỵ nên thấy vui khi người khác đau khổ?
Nhiều người hèn nhát nhưng thích tỏ ra cao thượng. Khi gặp cái ác, họ ban ra những lời an ủi, tỏ vẻ thông cảm, nhưng thực chất là né tránh, che đậy cái hèn nhát của mình. Họ muốn cho bản thân an toàn, nhưng tỏ ra đạo đức giả tạo để người ta kính trọng.
Người tốt là người có chính kiến, dám bênh vực cho lẽ phải, góp phần ngăn chặn, giảm thiểu cái ác, cái xấu. Đó chính là cái dũng của thánh nhân. Tùy vào hoàn cảnh mà làm, không manh động nhưng không hèn nhát. Người bênh vực cái ác, thoả hiệp với cái ác, im lặng trước cái ác, tuy không trực tiếp làm, nhưng họ cũng ác không kém người đã thủ ác bởi vì làm mảnh đất màu mở để cho cái ác có điều kiện sinh sôi phát triển.
“Người ta dễ bị cuốn hút bởi cái đẹp ngoại hình, nhưng thật ra cái cuốn hút lâu dài lại là sự sang trọng, uy nghi toát lên trong con người đó ….”
Người ta dễ bị cuốn hút bởi cái đẹp ngoại hình, nhưng thật ra cái cuốn hút ta lâu dài lại là sự sang trọng, uy nghi toát lên từ con người đó. Chính sự sang trọng, uy nghi mới làm người ta nể trọng, còn cái đẹp ngoại hình chỉ kích thích người ta ham muốn, chiếm đoạt hay sở hữu.
Cái đẹp ngoại hình là do ta may mắn nhận được di truyền từ cha mẹ, còn sự sang trọng, uy nghi chính là do chính ta học hỏi rèn luyện phẩm chất và trí tuệ mới có được.
Cái đẹp ngoại hình sẽ nhanh chóng tàn phai theo năm tháng. Cái đẹp của sự sang trọng, oai nghi thì sẽ mãi theo ta ở mọi lứa tuổi, mọi chốn mọi nơi, cho đến khi nào ta vẫn còn phẩm hạnh của mình.